TRẦN THỊ MỸ DIỆU
NGUYỄN TRUNG VIỆT
Đại học Văn Lang TP. Hồ Chí Minh
GIỚI THIỆU CHUNG
Trải qua nhiều năm nghięn cứu và thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường, các nhà khoa học Việt Nam đã nhận ra rằng chúng ta đang xử lý các “triệu chứng môi trường” (nước thải, chất thải rắn, khí thải,… sau khi chúng được thải ra môi trường xung quanh,…) thay vě giải quyết các “căn bệnh môi trường” (nguyęn nhân phát sinh chất thải). Vấn đề ô nhiễm môi trường không phải chỉ tại mỗi dňng sông, trong môi trường không khí, tại vị trí đổ chất thải nguy hại mŕ nguyên nhân sâu xa là từ nhận thức và hiểu biết của con người, của các tổ chức quản lý, từ các mối quan hệ giữa hoạt động công nghiệp, chính sách và cơ chế quản lý môi trường. Cho đến nay, hầu như quan điểm về bảo vệ môi trường ở Việt Nam vẫn còn chú trọng vào xử lý chất thải đã phát sinh. Giải pháp “xử lý cuối đường ống” đă trở nên phổ biến ở Việt Nam từ khi Luật Bảo vệ môi trường (1993) và các chính sách luật lệ liên quan đến môi trường ra đời. Việc ban hŕnh Bộ tiêu chuẩn môi trường Việt Nam đối với các loại chất thải công nghiệp (chất thải rắn, nước thải, khí thải, tiếng ồn vŕ rung, chất thải độc hại, chất thải nguy hại,…) đă góp phần thúc đẩy các nhŕ sản xuất tìm kiếm biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn quy định.
Trong một chừng mực nào đó, giải pháp “xử lý cuối đường ống” đă, đang vŕ sẽ đóng vai trň quan trọng trong việc giảm thiểu ô nhiễm. Sự hiện diện và hoạt động của các trạm xử lý nước thải tập trung tại KCN Biên Hòa 2, KCN Việt Nam – Singapore, KCX Linh Trung và nhiều các nhà máy khác là các bằng chứng cụ thể về vai trò của “xử lý cuối đường ống”. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực tế rằng mặc dù các giải pháp xử lý cuối đường ống đă được triển khai áp dụng từ năm 1990 nhưng đến nay chất lượng môi trường ở Việt Nam vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Sự suy thoái môi trường đang diễn ra hŕng ngày không chỉ do bản thân công nghệ xử lý, do quá trình phát triển công nghiệp quá nhanh, mà còn là hậu quả của việc thực thi các giải pháp xử lý cuối đường ống không hợp lý. Yêu cầu người gây ô nhiễm phải xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn quy định trong khi các cơ quan quản lý nhà nước không có đủ nguồn nhân lực và kinh phí để giám sát mức độ thực thi cũng lŕ một trong những nguyên nhân tất yếu dẫn đến tình trạng vận hành không hiệu quả các hệ thống xử lý chất thải.
Các khảo sát của UNEP cho thấy chỉ một số ít KCN có khả năng quản lý hoặc hiện nay có kế hoạch quản lý môi trường ở mức độ KCN. Tuy nhięn, do nhận thức về bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao và quy định ngày càng chặt chẽ, các KCN đang bị buộc phải tìm kiếm các giải pháp “chi phí – hiệu quả” để cải thiện các hoạt động bảo vệ môi trường của měnh. Các KCN hiện có vẫn là những hệ thống mở. Trong đó, nguyên liệu được khai thác từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho hoạt động công nghiệp vŕ sau đó được trả lại môi trường dưới dạng chất thải. Đó lŕ nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái môi trường tự nhiên theo đà phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, các nhà STCN cho rằng có thể khắc phục điều này bằng cách phát triển hệ công nghiệp theo mô hình hệ thống kín, tương tự như hệ sinh thái tự nhiên. Trong đó “chất thải” từ một khâu này của hệ thống sẽ là “chất dinh dưỡng” của một khâu khác. Ý tưởng rất cơ bản ở đây là sự cộng sinh công nghiệp. Hay nói cách khác, các cơ sở sản xuất công nghiệp, giống như các sinh vật tự nhiên, phải sử dụng sản phẩm phụ của cơ sở khác làm nguyên liệu sản xuất thay vì liên tục khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên mới và đổ chất thải vào môi trường.
Mặc dù STCN là môn khoa học mới, nhưng gần đây, môn khoa học nŕy đă nhận được sự ủng hộ của nhiều quốc gia tręn thế giới phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội bền vững. Nhiều thành phố của Mỹ đang quy hoạch để thŕnh lập Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) trong tương lai như Brownsville, Texas; Baltimore, Maryland; Cape Charles, Virhinia, Chattanooga, Tennessee, Plattsburgh, New York; Burlinton, Vermont. Ở Canada đang hěnh thành các KCNTS như KCN Burnside, Nova Scotia và Trung tâm Năng lượng, Ontaria (Diệu, 2003). Tại Hà Lan, KCN Bền Vững đang được hěnh thành tại Apeldoorn với tên gọi Ecofactorij. Mặc dù các dự án này chỉ mới bắt đầu, nhiều dự án vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, nhưng KCNST vẫn được xem lŕ ý tưởng phát triển công nghiệp bền vững khả thi nhất.
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Sinh thái công nghiệp
Khái niệm Sinh thái công nghiệp (STCN – Industrial Ecology) được biết đến vŕi năm trước đây, đặc biệt từ khi xuất hiện bŕi báo của Frosch và Gallpoulos phát hành theo số báo đặc biệt của tờ Scientific American (Frosch và Gallpoulos, 1989). Khái niệm STCN thể hiện sự chuyển hóa mô hình hệ công nghiệp truyền thống sang dạng mô hình tổng thể hơn – hệ STCN (industrial ecosystem). Trong đó, chất thải hay phế liệu từ quy trình sản xuất này có thể sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình sản xuất khác.
Trong khu công nghiệp sinh thái cơ sở hạ tầng công nghiệp được thiết kế sao cho chúng có thể tạo thŕnh một chuỗi những hệ sinh thái hòa hợp với hệ sinh thái tự nhiên trên toàn cầu. Khái niệm STCN còn được xem xét ở khía cạnh tạo thành mô hình hệ công nghiệp bảo toàn tài nguyên là chiến lược có tính chất đổi mới nhằm phát triển công nghiệp bền vững bằng cách thiết kế những hệ công nghiệp theo hướng giảm đến mức thấp nhất sự phát sinh chất thải vŕ tăng đến mức tối đa khả năng tái sinh – tái sử dụng nguyęn liệu và năng lượng. STCN lŕ một hướng mới tiến đến đạt được sự phát triển bền vững bằng cách tối ưu hóa mức tięu thụ tài nguyên thiên nhiên và năng lượng đồng thời giảm thiểu sự phát sinh chất thải. Hay nói cách khác, khái niệm STCN cňn bao hàm tái sinh, tái chế, tuần hoàn các loại phế liệu, giảm thiểu chi phí xử lý, tăng cường việc sử dụng tất cả các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm bao gồm cả sản xuất sạch hơn vŕ xử lý cuối đường ống. Ở đây sản xuất sạch hơn lŕ hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức cơ sở sản xuất rięng lẻ, trong khi đó STCN hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức hệ công nghiệp.
Mặc dù khái niệm STCN vẫn còn “non trẻ” và chưa có một định nghĩa thống nhất, tuy nhiên có thể thấy sự nhất trí rằng khái niệm STCN thể hiện những quan điểm chính sau đây:
- STCN là sự tổ hợp toàn diện và thống nhất tất cả các thành phần của hệ công nghiệp và các mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh.
- STCN nhấn mạnh việc xem xét các hoạt động do con người điều khiển sao cho có thể phát triển công nghiệp theo hướng bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- STCN xem quá trình tiến hóa (cải tiến) công nghệ sản xuất là yếu tố quan trọng để chuyển tiếp từ hệ công nghiệp không bền vững hiện tại sang hệ STCN bền vững trong tương lai.
Cơ sở hình thành khái niệm STCN là dựa trên hiện tượng trao đổi chất công nghiệp (industrial metabolism). Đó lŕ toàn bộ các quá trình vật lý chuyển hóa nguyên liệu và năng lượng cùng với sức lao động của con người thành sản phẩm, phế phẩm và chất thải ở điều kiện ổn định. Khái niệm nŕy giúp chúng ta hiểu được hoạt động của hệ công nghiệp vŕ mối quan hệ tương hỗ của chúng đối với môi trường xung quanh. Tręn cơ sở đó, cůng với những hiểu biết về hệ sinh thái, con người có thể hiệu chỉnh hệ công nghiệp sao cho tương thích với hoạt động của hệ sinh thái tự nhiên. Bằng cách làm như vậy, các cơ sở sản xuất công nghiệp có thể được tổ hợp thành những hệ STCN. Những hệ STCN này sẽ bao gồm nhiều cơ sở sản xuất được tập hợp sao cho chúng sử dụng sản phẩm và chất thải của nhau. Những kiến thức cơ bản về quá trình trao đổi chất công nghiệp vŕ hệ STCN là cơ sở để hiểu rõ và ứng dụng những nguyên lý cơ bản của khái niệm STCN.
Quá trình trao đổi chất công nghiệp
Quá trình trao đổi chất công nghiệp thể hiện sự chuyển hóa của dòng vật chất và năng lượng từ nguồn tài nguyên tạo ra chúng, qua quá trình chế biến trong hệ công nghiệp, đến người tiêu thụ và cuối cùng thải bỏ. Trao đổi chất công nghiệp cung cấp cho chúng ta khái niệm cơ bản về quá trình chuyển hóa hệ thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiện tại theo hướng phát triển bền vững. Đây lŕ cơ sở cho việc phân tích dòng vật chất, xác định và đánh giá các nguồn phát thải cũng như các tác động của chúng đến môi trường.
Quá trình trao đổi chất công nghiệp so với quá trình trao đổi chất sinh học
Quá trình trao đổi chất sinh học đă có từ khi xuất hiện khoa học sinh học. Khái niệm này được sử dụng để mô tả các quá trěnh chuyển hóa trong cơ thể sinh vật sống. Trao đổi chất sinh học được sử dụng để mô tả các quá trěnh hóa sinh xảy ra luân phiên trong các phân tử sinh học.
Sự giống nhau giữa quá trình trao đổi chất sinh học và trao đổi chất công nghiệp là: “Các quá trình trao đổi chất có thể được chia thŕnh 2 nhóm chính: quá trình đồng hóa và quá trình dị hóa. Cũng như thế, một hệ STCN tổng hợp vật chất, hay thực hiện quá trình đồng hóa, và phân hủy vật chất, tức là thực hiện quá trình tương tự như quá trình dị hóa sinh học”. Trong một hệ sinh học, quá trình trao đổi chất xảy ra ở tế bào, ở các cơ quan riêng biệt cũng như trong toàn bộ cơ thể sinh vật. Tương tự như vậy, quá trình trao đổi chất công nghiệp cũng có thể xảy ra trong từng cơ sở sản xuất rięng biệt, trong từng ngành công nghiệp và ở mức toàn cầu. Mặc dù có một số điểm khác biệt giữa một sinh vật sống và một cơ sở sản xuất khái niệm trao đổi chất công nghiệp có thể áp dụng đối với các cơ sở sản xuất. Điểm cốt yếu lŕ phải xác định rő phạm vi mà dòng vật chất và năng lượng tham gia vào quá trình chuyển hóa (xem bảng 1).
Bảng 1. Sự khác nhau giữa sinh vật sốngvà cơ sở sản xuất
Sinh vật sống | Cơ sở sản xuất |
Sinh vật có khả năng tái sản sinh ra chúng.Sinh vật có tính đặc trưng vŕ không thể thay đổi đặc tính của chúng trừ khi trải qua quá trěnh tiến hóa lâu dài. | Cơ sở sản xuất chỉ tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ phục vụ.Cơ sở sản xuất có thể thay đổi từ mặt hŕng sản xuất cũng như dịch vụ thương mại từ dạng này sang dạng khác. Một cơ sở sản xuất chuyển hóa nguyên liệu, bao gồm cả nhiên liệu và năng lượng, thành sản phẩm, phế phẩm và chất thải. |
Nguồn: Ayres, 1994
Trao đổi chất sinh học lŕ quá trình tự điều chỉnh. Đối với từng sinh vật, quá trình này được thực hiện bởi những cơ chế sinh học chung. Ở mức hệ sinh thái, quá trình này xảy ra thông qua sự đấu tranh sinh tồn giữa các sinh vật. Một hệ STCN cũng là một hệ tự điều chỉnh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ chế chính của quá trình là hệ kinh tế được vận hành theo quy luật cung – cầu”. Một cách tổng quát, những điểm giống và khác nhau giữa quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên và hệ công nghiệp được trình bày tóm tắt trong bảng 2.
Trong hệ sinh thái tự nhiên, chu trình sinh học của vật liệu được duy trě bởi 3 nhóm chính: sản xuất, tiêu thụ và phân hủy. Nhóm sản xuất có thể là cây trồng và một số vi khuẩn có khả năng tự tạo ra nguồn thức ăn cần thiết cho bản thân chúng nhờ quá trěnh quang hợp hoặc để cung cấp năng lượng và protein cần thiết cho cơ thể chúng. Nhóm phân hủy có thể là nấm và vi khuẩn. Nhóm này có khả năng chuyển hóa các chất hữu cơ thành nguồn thức ăn cần thiết cho nhóm sản xuất. Do đó, nhóm phân hủy cũng đóng vai trň của cơ sở tái chế. Với nguồn năng lượng là ánh nắng mặt trời, thế giới tự nhiên có khả năng duy trì chu trình sản xuất – tiêu thụ- phân hủy một cách vô hạn. Hay nói cách khác, một thực thể tồn tại độc lập nhỏ nhất cũng là một hệ sinh thái.
Trong các hệ công nghiệp, hoạt động sản xuất bao gồm tạo ra năng lượng vŕ những sản phẩm khác. Nhóm tiêu thụ sản phẩm có thể là những nhà máy khác, con người (thị trường) và động vật. Quá trình phân hủy bao gồm xử lý, thu hồi và tái chế chất thải. Tuy nhiên, khác với hệ sinh thái tự nhiên, hệ công nghiệp không thể dựa vào nhóm phân hủy để tái sản sinh hoàn toàn vật liệu đã sử dụng trong quá trình sản xuất. Hiện tại, hệ công nghiệp vẫn thiếu nhóm phân hủy và tái chế hiệu quả. Đó là lý do tại sao những vật liệu không mong muốn (cả chất thải và phế phẩm) được thải ra môi trường xung quanh. Xét theo khía cạnh này, hệ công nghiệp là một hệ thống không hoặc ít khép kín. Để đạt tięu chuẩn của một hệ STCN, các sản phẩm phụ và chất thải phải được tái sử dụng và tái chế.
Chu trình vật chất. Dòng vật chất và năng lượng là hai yếu tố quan trọng trong quá trình trao đổi chất công nghiệp. Trong hệ công nghiệp hiện tại, có hai hình thức sử dụng nguyên liệu. Dạng thứ nhất gọi là hệ trao đổi chất một chiều. Trong hệ thống này không có sự liên hệ giữa nguyên vật liệu cung cấp cho hệ thống và sản phẩm tạo thành (hình 1). Quá trình sản xuất, sử dụng và thải bỏ vật chất xảy ra không đi kèm theo hoạt động tái sử dụng hoặc thu hồi năng lượng vŕ nguyên liệu. Dạng thứ hai có đặc tính tái sử dụng tối đa dňng vật chất trong chu trình sản xuất nhưng vẫn cần cung cấp nguyên vật liệu và vẫn tạo ra chất thải cần thải bỏ (hình 2). Trên cơ sở hiểu biết quá trình trao đổi chất công nghiệp, chúng ta có thể tối ưu hóa hệ công nghiệp để tăng đến mức tối đa hiệu quả sản xuất, giảm thiểu chất thải vŕ hạn chế đến mức thấp nhất ô nhiễm môi trường bằng cách tự tạo chu trěnh vật chất khép kín. Điều đó có nghĩa lŕ chu trình vật chất có thể được khép kín càng nhiều càng tốt theo phương thức mà vật liệu không cần thiết phải di chuyển quá xa đến nơi sử dụng/tái sử dụng. Như vậy, thị trường tiêu thụ phế phẩm/phế liệu/ chất thải tại địa phương cần được phát triển để chuyển hóa những vật liệu thải nŕy thành sản phẩm có giá trị hơn (hình 1).
Hệ thống thích hợp nhất là mô hình cải tiến, tạo dòng vật chất khép kín trong hệ công nghiệp nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất. Điều nŕy có thể đạt được bằng các phương thức trao đổi, tái sinh, tái chế nguyęn liệu và năng lượng giữa các cơ sở sản xuất khác nhau trong hệ STCN (xem hình 2)
Bảng 2: Đặc điểm quá trěnh trao đổi chất củahệ sinh thái tự nhiên
và hệ công nghiệp hiện tại
Đặc tính | Hệ sinh thái tự nhiên | Hệ công nghịêp hiện đại |
Đơn vị cơ bản | Sinh vật | Nhà máy |
Dòng vật chất | Hệ khép kín | Chủ yếu là biến đổi theo một chiều |
Tái sử dụng | Hầu như hoàn toàn | Thường rất thấp |
Vật liệu | Có khuynh hướng cô đặc, chẳng hạn CO2 trong không khí được chuyển hóa thŕnh sinh khối qua quá trình quang hợp | Hầu như được sử dụng một cách phung phí để chế tạo ra vật liệu khác, vật liệu bị pha loăng quá mức có thể tái sử dụng, nhưng lại bị cô đặc đủ để gat ô nhiễm |
Quá trình tái tạo | Một trong những chức năng chính của sinh vật lŕ sự tự sinh sản | Sản xuất ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ là mục đích chủ yếu của hệ công nghiệp nhưng tái sản xuất không phải là bản chất của hệ công nghiệp |
Nguồn: Manahan, 1999.
Hệ sinh thái công nghiệp
Các thành phần chính của hệ STCN. Hệ STCN được tạo thành từ tất cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, kết hợp cả sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Bốn thành phần chính của hệ STCN bao gồm: (1) cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và năng lượng ban đầu, (2) nhŕ máy chế biến nguyên liệu, (3) nhà máy xử lý/tái chế chất thải và (4) tiêu thụ thành phẩm (hình 3). Cơ sở sản xuất nguyên liệu và năng lượng ban đầu có thể gồm một hoặc nhiều nhŕ máy cung cấp nguyên liệu ổn định cho hệ STCN. Qua nhiều quá trěnh chế biến, ví dụ trích ly, cô đặc, phân loại, tinh chế,… các nguyęn liệu thô sẽ được chuyển hóa thŕnh nguyên liệu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tái sinh tái chế (trong chính dây chuyền sản xuất hiện tại của nhà máy hoặc ở những nhà máy khác). Sản phẩm, phế phẩm, sản phẩm phụ,… sẽ được chuyển đến người tięu dùng. Trong tất cả các trường hợp, sản phẩm sau khi sử dụng sẽ được thải bỏ hoặc tái chế. Cuối cùng, nhà máy xử lý chất thải sẽ thực hiện công tác thu gom, phân loại và xử lý các vật liệu có khả năng tái chế cũng như chất thải (hình 3).
Các dạng hệ STCN. Một hệ STCN sẽ tận dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ của các nhà máy khác nhau trong hệ thống và cả các thành phần không phải là cơ sở sản xuất, ví dụ từ các hộ gia đěnh thuộc khu dân cư nằm trong khuôn viên của hệ thống đang xét. Bằng cách này, lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu thụ cũng như lượng chất thải phát sinh sẽ giảm do chất thải/phế phẩm được sử dụng để thay thế một phần nguyęn liệu và năng lượng cần thiết. Có thể phân chia hệ STCN theo 5 dạng khác nhau dựa trên ranh giới của hệ thống. Tiêu chí để xác định ranh giới của hệ STCN lŕ dựa trên vị trí địa lý hoặc chuỗi sản phẩm/nguyên liệu. Các loại hình hệ STCN này có thể mô tả như sau:
– Hệ STCN theo chu trình vòng đời sản phẩm. Trong trường hợp này, ranh giới của hệ STCN được xác định theo các thŕnh phần kinh tế (cả nhà sản xuất và người tiêu dùng) liên quan đến một loại sản phẩm cụ thể.
– Hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu. Tương tự hệ sinh thái theo chu trình vòng đời sản phẩm, ranh giới của hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu được xác định bởi các thŕnh phần liên quan đến một loại nguyên liệu cụ thể.
– Hệ STCN theo diện tích/vị trí địa lý. KCN Burnside ở Halifax (Canada), KCN Kalunborg (Đan Mạch) lŕ những thí dụ điển hěnh về loại hình hệ STCN này. Trong trường hợp này, ranh giới địa lý không kể đến khu vực tięu thụ sản phẩm.
– Hệ STCN theo loại hình công nghiệp. Theo cách phân loại này, một nhóm các cơ sở sản xuất thuộc cùng loại hình công nghiệp hợp thành hệ STCN. Trong thực tế, loại hình hệ STCN này được xây dựng theo định hướng môi trường chung của từng loại hěnh công nghiệp.
– Hệ STCN hỗn hợp. Trong trường hợp này, khái niệm hệ STCN không đề cập đến một ranh giới cụ thể mà chỉ xem xét mối tương quan giữa các nhà máy có thể sử dụng phế phẩm/phế liệu của nhau. Đây là loại hình thông dụng nhất.
Khu công nghiệp sinh thái
Mục đích của KCNST lŕ nhằm xây dựng một hệ công nghiệp gồm nhiều nhà máy hoạt động độc lập nhưng kết hợp với nhau một cách tự nguyện, hình thành quan hệ cộng sinh giữa các nhà máy với nhau và với môi trường. Như vậy, các nhà máy trong KCNST cố gắng đạt được những lợi ích kinh tế vŕ hiệu quả bảo vệ môi trường chung thông qua việc quản lý hiệu quả năng lượng, nước và nguyên liệu sử dụng. Theo nghiên cứu của trường Đại học Cornell, một KCNST phải bao gồm các nhà máy cộng tác với nhau trên cơ sở phối hợp:
– Trao đổi các loại sản phẩm phụ;
– Tái sinh, tái chế, tái sử dụng sản phẩm phụ tại nhà máy, với các nhà máy khác và theo hướng bảo toàn tài nguyên thiên nhiên;
– Các nhà máy phấn đấu sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường (sản phẩm sạch);
– Xử lý chất thải tập trung;
– Các loại hình công nghiệp phát triển trong KCN được quy hoạch theo định hướng bảo vệ môi trường của KCNST;
– Kết hợp giữa phát triển công nghiệp với các khu vực lân cận (vùng nông nghiệp, khu dân cư,…) trong chu trình trao đổi vật chất (nguyên liệu, sản phẩm, phế phẩm, chất thải).
Bên cạnh đó, khi xây dựng KCNST cần đạt các yęu cầu:
– Sự tương thích về loại hình công nghiệp theo nhu cầu nguyên vật liệu- năng lượng với sản phẩm – phế phẩm – chất thải tạo thành.
– Sự tương thích về quy mô. Các nhà máy phải có quy mô sao cho có thể thực hiện trao đổi vật chất theo nhu cầu sản xuất của từng nhà máy, nhờ đó giảm được chi phí vận chuyển, chi phí giao dịch, vŕ tăng chất lượng của vật liệu trao đổi.
– Giảm khoảng cách (vật lý) giữa các nhà máy. Giảm khoảng cách giữa các nhà máy sẽ giúp hạn chế thất thoát nguyên vật liệu trong quá trình trao đổi, giảm chi phí vận chuyển và chi phí vận hành đồng thời dễ dàng hơn trong việc truyền đạt và trao đổi thông tin.
Phát triển KCNST mang lại những lợi ích sau đây:
– Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn tài chính;
– Giảm chi phí sản xuất, nguyên vật liệu, năng lượng, bảo hiểm vŕ xử lý đồng thời giảm được gánh nặng trách nhiệm pháp lý về mặt môi trường;
– Cải thiện hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm và môi trường, tạo được ấn tượng tốt đối với người tięu dùng;
– Gia tăng thu nhập cho từng nhŕ máy nhờ giảm mức tiêu thụ nguyên liệu thô, giảm chi phí xử lý chất thải đồng thời có thêm thu nhập từ nguồn phế phẩm/phế liệu hay vật liệu thải bỏ của nhà máy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ayres, R. U. and Simonis, U. E (1994), Industrial Metabolism: Restructuring for Sustainable Development, United Nations: University Press.
- Boons, F. A. A. and Baas, L. W. (1997), Types of Industrial Ecology: The Problems of Coordination, J. Cleaner Prod.
- Carr, A. J. P. (1998), Choctaw Eco-Industrial Park: An Ecological Approach to Industrial Land-Use Planning and Design, Landscape and Urban Planning.
- Dieu, T. T. M. (2003), Greening Food Processing Industry in Vietnam: Putting Industrial Ecology to Work, PhD Disseration, Wageningen University, The Netherlands.
- Erkman, S. (2001), Industrial Ecology: A New Perspective on the Future of the Industrial System, Official Journal of the Swiss Society of Infectious Disease, the Swiss Society of Internal Medicine, the Swiss Society of Pneumology.
- Frosch, R. A. and Gallopoulos, N. E. (1989), Strategies for manufacturing, Managing Planet Earth, pp. 97-108.
- Krrishnamohan, K., and Heart, S. (2002), Industrial Ecology and Sustainable Development-A Viewpoin, International Journal of Environmental Studies.
- Lewenthal, M. D., and Kastenberg, W. E. (1998), Industrial Ecology and Energy Systems: A Fist Step, Resources, Conservation and Recycling.
- Manahan, S.E. (1999), Industrial Ecology: Environmental Chemistry and Hazardous Waste, Lewis Publishers
Leave a Reply