Nguyễn Ngọc Sinh và PGS.TS. Nguyễn Đình Hòe
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam được thành lập từ năm 1988. Trong suốt 27 năm qua, Hội luôn phấn đấu theo đúng tôn chỉ và mục đích của mình vì sự nghiệp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của đất nước. Quan điểm phát triển mang tính chiến lược của Hội được thể hiện đơn giản qua thông điệp “Môi trường với Cộng đồng”. Có thể nói mọi hoạt động của Hội đều xoay quanh cộng đồng, cho dù đó là xuất bản một ấn phẩm, tổ chức một cuộc tọa đàm, một hội thảo, hay lớn hơn , phát động một phong trào bảo vệ môi trường. Chính là thông qua các hoạt động của Hội, chúng tôi đã nhận thức được sâu sắc và toàn diện hơn về vai trò của cộng đồng. Người dân đã dẫn các nhà khoa học tới Sơn Đoòng để các nhà khoa học “phát hiện” ra hang động làm sửng sốt thiên hạ. Người dân đã mời các nhà điều tra tới chiêm ngưỡng cặp sừng treo trong nhà mình để rồi sau đó “ra đời “ loài Sao La chấn động giới khoa học. Các giáo sư, tiến sỹ Hội chúng tôi ngày càng tâm phục khẩu phục cha ông chúng ta, trong hàng trăm, hàng nghìn năm qua, đã giữ cho hậu thế biết bao đại thụ vô giá. Sự kết hợp giữa người dân địa phương, giữa cộng đông với các nhà khoa học còn có thể cho ta những kết quả bất ngờ hơn nữa.Đây là những vấn đề rất cần được bàn thảo kỹ lưỡng.Chúng tôi cũng đã cố gắng tiến hành nhiều công việc liên quan như tổ chức hội thảo, in ấn và phát hành nhiều tài liệu,…về vấn đề này.
Tuy nhiên, trong tham luận tại Hội nghị quan trọng hôm nay, Hội nghị mà Hội chúng tôi luôn chờ đợi và mong muốn được đóng góp, chúng tôi xin chia sẻ những thông tin về một vấn đề mới, nóng và còn ít được đề cập, đó là các vấn đề liên quan đến An ninh môi trường, mà ở đây là An ninh Khí hậu. Thông qua những kết quả nghiên cứu và các hoạt động của Hội, chúng tôi muốn xác nhận rằng, các vấn đề về An ninh Khí hậu một lần nữa đòi hỏi những chính sách ứng phó với Biến đổi Khí hậu (BĐKH) phải được ưu tiên rất cao so với những mảng chính sách khác, đặc biệt là đối với những đảo quốc nhỏ giữa đại dương và những quốc gia đất thấp ven biển, trong đó có Việt Nam ta.
II. AN NINH MÔI TRƯỜNG BAO GỒM AN NINH KHÍ HẬU (ANKH)
Tháng 11-2006 Nguyên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh về BĐKH tại Nairobi:“BĐKH toàn cầu phải được coi là mối đe dọa toàn diện”. Còn đương kim Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon tháng 4-2007 nhấn mạnh rằng “BĐKH kéo theo sự khan hiếm tài nguyên có tác động lớn đến hòa bình và an ninh thế giới”. Bộ trưởng Môi trường Nhật Bản trong một nghiên cứu về Chính sách của nước này khẳng định mối đe dọa của BĐKH là toàn diện bao gồm cả những đe dọa đến sản xuất lương thực, sức khỏe cộng đồng, hoạt động kinh tế và các hệ sinh thái.
Bộ trưởng các nước dự Hội nghị BĐKH Cancun, Mexico năm 2011 đã cảnh báo rằng thế giới không còn đủ thời gian để cứu Trái Đất nữa. Tại Hội nghị này, vị nữ quan chức về BĐKH hàng đầu của LHQ, bà Christiana Figueres nói: “Các đảo nhỏ ngoài khơi như Tuvalu, Maldives, Kiribati, Vanuatu đang tìm cách sơ tán toàn bộ số dân trước sự xâm nhập của nước mặn và mực nước biển dâng cao. Mạng sống, số phận của các nước này là lời cảnh tỉnh đối với chúng ta.”
Chương trình môi trường của LHQ (UNEP) chính thức trao cho các đại biểu kết quả nghiên cứu công bố hai tuần trước khi Hội nghị Cancun triển khai. Công bố nêu rõ, ngay cả cam kết cắt giảm khí thải hiện đang được bàn tới nếu có được thực hiện đi nữa, cũng không đủ để giảm nhiệt độ tăng trên Trái Đất, tới điểm mà chính phủ các nước mong muốn (đa số quốc gia chỉ muốn nhiệt độ tăng từ 1,5oC đến 2oC), bởi lẽ hàm lượng CO2 trong khí quyển hiện nay đã là 390 ppm (phần triệu), vượt quá ngưỡng 350 ppm – ngưỡng tai biến của khí hậu trái đất..
Hoa Kỳ, năm 2007 là nước đầu tiên xây dựng Luật về An ninh Khí hậu. Khái niệm ANKH khi mới xuất hiện đặt trọng tâm vào an ninh năng lượng và tài nguyên nước, trước hết nhằm tìm kiếm sự hợp tác của những quốc gia ở châu Phi, Trung Quốc, Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc về ANKH trong khu vực nhạy cảm nhất của thế giới là châu Phi.
Như vậy BĐKH có khả năng gây tác động tiêu cực toàn diện đến chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường trên phạm vi toàn cầu. Mối liên quan giữa “BĐKH và An ninh” được làm rõ hơn với việc tách một bộ phận của An ninh Môi trường ra một khái niệm an ninh mới, đó là ANKH ngay từ năm 2008. Khái niệm này được nhiều người sử dụng trong những năm gần đây, vì nó thể hiện rất rõ rệt mối liên quan của BĐKH với an ninh. Hơn nữa, đó cũng là một thuật ngữ đơn giản và dễ hiểu. Đến nay có thể hiểu ANKH là một bộ phận của An ninh Môi trường, bao gồm những vấn đề an ninh của con người và xã hội trước các đe dọa khác nhau do BĐKH gây ra. Quan niệm BĐKH trong phạm trù An ninh Môi trường đòi hỏi những chính sách ứng phó với BĐKH phải được ưu tiên rất cao so với những mảng chính sách khác. Với những đảo quốc thấp và những quốc gia có nhiều vùng đất thấp (như Việt Nam chẳng hạn) ứng phó với BĐKH trở thành vấn đề sống còn. Điều đó hiện hữu không thể nghi ngờ.
Hiện nay ANKH đã được mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Một Báo cáo của Ủy ban Châu Âu (2008) cũng xác nhận 7 mối gắn kết chặt chẽ giữa BĐKH với an ninh quốc tế như sau: (i) Xung đột trong tranh chấp tài nguyên; (ii) Thiệt hại kinh tế và đe dọa đến các đô thị ven biển và các cơ sở hạ tầng nhạy cảm;(iii) Mất đất đai và tranh chấp biên giới; (iv) Tị nạn môi trường diện rộng; (v) Bùng phát tình trạng dễ bị tổn thương và cực đoan hóa; (vi) Căng thẳng trong cung cấp năng lượng; và (vii) Áp lực căng thẳng lên các mối quan hệ quốc tế.
Thảm họa về BĐKH tất yếu dẫn đến thảm họa An ninh Môi trường, thậm chí còn dẫn đến sụp đổ cả một quốc gia trong những khu vực nhạy cảm với BĐKH. Rõ ràng chúng ta cần hội nhập quốc tế đầy đủ hơn, cần nhận thức đầy đủ hơn trong lĩnh vực này.
Ảnh 1: Hội thảo Cộng đồng Bảo vệ môi trường tại Đà Nẵng
III. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN AN NINH MÔI TRƯỜNG, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀVIEECJ THỰC HIỆN TRÊN THỰC TẾ
Quan điểm chung của Nghị quyết 24-NQ/TW (ngày 03/6/2013) đã ghi “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”. (Khoản 1): Chủ động ứng phó với BĐKH (…) là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.
Về Nhiệm vụ cụ thể (mục a khoản 4):… Phát huy trách nhiệm và huy động các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư tích cực tham gia phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong Quyết định số 1474/QĐ-TTg ngày 05-10- 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch Hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 – 2020 , trong đó ghi rõ: Huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế, các tổ chức khoa học, chính trị – xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức phi chính phủ trong ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng cộng đồng thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu (Khoản 6).
Không bàn tới vấn đề được Hội chúng tôi nhiều lần đề xuất là cần thiết xây dựng chiến lược huy động sức mạnh cộng đồng trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường như một loại chiến lược hỗ trợ và kết nối, có thể thấy rằng, các văn bản của Trung ương, về tổng thể, đã quy định rõ vai trò cộng đồng trong bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên và chủ động ứng phó BĐKH. Nhưng cũng phải công nhận rằng, các quy định này,khi triển khai cụ thể ở địa phương thì chưa thể hiện được đúng tầm cỡ, chưa mang lại những kết quả như mong muốn.Chúng tôi thấy khá rõ điều này trong loạt Hội thảo “Bảo tồn da dạng sinh học dãy Trường Sơn” do Hội chúng tôi phối hợp với Cục Bảo tồn ĐDSH tổ chức hàng năm từ 2009 tới nay( lần thứ 1 và thứ 3 tại Huế, lần thứ 2 tại Hà Nội, lần thứ 4 tại Quảng Trị, lần thứ 5 tại Đắc Lắc, lần thứ 6 tại Đà Nẵng và lần thứ 7, năm 2015 này, dự kiến tại Bình Phước).Trên thực tế cũng đã xuất hiện nhiều mô hình xã hội hóa có hiệu quả trong bảo vệ môi trường nói chung, trong ứng phó với BĐKH nói riêng, nhưng vẫn chỉ là cục bộ, chưa được phân tích và đánh giá đầy đủ.
Những năm gần đây, nghiên cứu về các loại mô hình cộng đồng vừa nói, Hội chúng tôi đã liên tục phát hiện sự đa dạng về vùng miền, phong phú về quy mô,thực tiễn về phương thức tổ chức, khá bền vững và đặc biệt là hiệu quả cao về kinh tế – xã hội và văn hóa của các loại mô hình này. Các hội nghị điển hình tiên tiến hàng năm, các hình thức vinh danh các tổ chức, cá nhân xuất sắc do Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,…thực hiện cũng đã thường xuyên biểu dương, công nhận nhiều mô hình cộng đồng tiêu biểu.Bảng dưới đây cho thấy một số loại mô hình phát huy được vai trò cộng đồng trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, vừa bảo vệ môi trường, vừa góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế người dân bằng chính những tài nguyên mà họ đang quản lý. Bảng này chưa thể tổng kết hết những mô hình đang hoạt động, cũng chưa đi sâu vào lý giải từng loại mô hình, mà chỉ muốn nói lên sự phong phú, đa dạng của các loại mô hình tiên tiến trong đó vai trò cộng đồng là quan trọng.
Bảng 1: Một số loại mô hình cộng đồng BVMT và PTBV
Số TT | Loại Mô hình | Địa bàn hoat động |
1 | Làng sinh thái | Nhiều nơi |
2 | Tổ, đội tự quản vệ sinh môi trường | Nhiều nơi |
3 | Hương ước, quy chế BVMT | Nhiều nơi |
4 | Các mô hình PTBV lưu vực sông | Các lưu vực vừa và lớn |
5 | Quản lý tổng hợp vùng bờ | Các vùng ven biển |
6 | Áp dụng sản xuất sạch hơn | Một số doang nghiệp CN |
7 | Doanh nghiệp đạt ISO 14.000 | Một số doanh nghiệp CN |
8 | Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng | Nhiều nơi |
9 | Cộng đồng PTBV thích ứng BDKH ven biển | Dải ven biển |
10 | Sinh kế bền vững gắn với bảo vệ rùa biển | Duyên hải miền Trung |
11 | Sinh kế bền vững gắn với bảo vệ rạn san hô | Duyên hải |
12 | Trồng rừng ngập mặn ven biển | Duyên hải |
13 | Cộng đồng thích ứng nước biển dâng | Quảng Ngãi,Bình dịnh,… |
14 | Mô hình du lịch đồng quê BVMT | Nhiều nơi |
15 | Dịch vụ tắm lá thuốc góp phần bảo đảm sinh kế cộng đồng dân tộc ít người (Dao, Tày,…) | Miền núi, Trung du |
16 | Bảo đảm an ninh khí hậu | Miền Tây sông Hậu |
17 | Mô hình ( đặc biệt ) bảo tồn Cây Di sản VN | Nhiều nơi |
18 | Thành phố Bền vững | Đà Nẵng và 1 số thành phố khác |
Cũng phải một lần nữa xác nhận rằng,trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, việc phát hiện được các mô hình tốt đã là khó, nhưng việc tổ chức nâng cấp, hoàn thiện, tổ chức nhân rộng còn khó hơn nhiều, thậm chí cả khi đã có hẳn quy định và được tạo điều kiện để áp dụng. Bảng tổng kết thực hiện các tiêu chí Nông thôn mới gần đây cho ta thấy rõ điều này Trong số 19 tiêu chí, các tiêu chí môi trường và liên quan với các mức độ khác nhau như thu nhập, hộ nghèo,văn hóa,…đều có mức độ thực hiện vào loại thấp.
Bảng 2: Tình hình thực hiện các tiêu chí Nông thôn mới
Đơn vị: %
Tiêu chí | Tỷ lệ đạt | Tiêu chí | Tỷ lệ đạt |
1 Quy hoạch | 93,1 | 11 Hộ nghèo | 23,8 |
2 Giao thông | 11,2 | 12 Tỷ lệ LĐ có VLTX | 50,5 |
3 Thủy lợi | 31,2 | 13 Hình thức TCSX | 57,5 |
4 Điện | 66,2 | 14 Giáo dục | 46,7 |
5 Trường học | 21,6 | 15 Y tế | 46,2 |
6 CSVC văn hóa | 7,3 | 16 Văn hóa | 47,8 |
7 Chợ nông thôn | 29,9 | 17 Môi trường | 14,5 |
8 Bưu điện | 75,0 | 18 Hệ thống tổ chức CTXH | 63,1 |
9 Nhà ở dân cư | 37,6 | 19 An ninh trật tự xã hội | 86,5 |
10 Thu nhập | 28,7 |
Nguồn: Ban Chỉ đạo Chương trình Nông thôn mới, Bộ NN&PTNT, 2014
Chúng tôi xin nói về một hoạt động cộng đồng tiêu biểu do Hội chúng tôi phát động và tổ chức thực hiện 5 năm trở lại đây, đó là Sự kiện Bảo tồn Cây Di sản Việt Nam. Nhiều bài báo, chương trình phát thanh, truyền hình và cả phim ảnh đã gọi Sự kiện này là nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Cây Di sản và còn hơn thế nữa, đó chính là một trong những nội hàm của nền văn hóa môi trường tiên tiến mà chúng ta cần hướng tới. Gần 2 nghìn cổ thụ thuộc 70 loài cây đã được công nhận tại 40 tỉnh và thành phố với nhiều “kỷ lục” về tuổi, về chiều cao, về đường kính thân cây, về vẻ đẹp cùng những huyền thoại, truyền thuyết đi kèm chưa nói được hết mọi điều, nhưng cũng đã gợi mở cho chúng tôi những hướng mới trong điều tra nghiên cứu, củng cố thêm cho chúng tôi niềm tin vào cộng đồng và đặc biệt, đặt ra cho chúng tôi trách nhiệm làm sao để phát huy tốt hơn nữa sức mạnh tiềm tàng của cộng đồng trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và bảo đảm an ninh khí hậu.
Nghiên cứu về trường hợp miền Tây sông Hậu cho thấy các tỉnh ở đây chịu tác động của BĐKH khá rõ rệt. Nhiều mô hình ứng phó với BĐKH đã đem lại hữu ích trong đời sống dân sinh, phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, cũng còn nhiều điều đáng quan tâm cần làm cho ý thức cộng đồng về BĐKH ngày càng cao hơn.
Ảnh 2: Lễ vinh danh Cây Di sản Việt Nam tại Đắc Lắc
Hậu Giang là tỉnh nghèo mới tái lập được hơn 10 năm nhưng đã có những thành công lớn trong phát triển KT –XH, đặc biệt đã xác định được các tập đoàn cây trồng thích ứng BĐKH như tập đoàn cây xanh thành phố, các giống thơm (dứa), mía đường, cũng như dự án bảo tồn Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng mà bản chất là kho nước Trời cho. Ngập lụt ở Hậu Giang có những biểu hiện rất lạ: khi lũ thượng nguồn sông Hậu chưa về mà vùng trũng Phụng Hiệp đã ngập nặng. Nước ngọt “như chui từ dưới đất lên” Ở Gò Quao, ai cũng biết đến những cây cầu do dân làm. Tới năm 2007 đã có gần trăm cây cầu do người dân tự bỏ công của ra làm trị giá hàng tỷ đồng “mọc” lên ở các xã Vĩnh Phước, Định An, Định Hoà, Thủy Liễu… Gò Quao giờ đây đã không còn cây cầu khỉ nào. Ổn định sinh kế trong bối cảnh BĐKH cho người dân là một cách tiếp cận lâu dài ứng phó với BĐKH ở Hậu Giang
Tỉnh Kiên Giang thành công về kỹ thuật với mô hình kè 3 lớp “Phục hồi vùng ven biển và rừng ngập mặn bằng hàng rào cừ tràm” với sự tài trợ của GTZ và AusAID. Mô hình này rất thành công nhưng lại tốn kém phải dựa vào tài trợ nước ngoài. Kiên Giang có chừng 100 km bờ biển đang bị xói lở. Hệ thống bảo vệ này gồm 4 lớp, từ biển vào: (i) Kè đóng bằng gỗ cây tràm cừ để phá sóng; (ii) Vùng trồng cây ngập mặn non để bẫy bồi tích, chủ yếu là bùn; (iii) Rừng ngập mặn trồng mới và tái sinh dày chừng 10m và (iv) Đê biển có mái đổ bê tông làm đường giao thông. Bước đầu cho thấy mô hình này có hiệu quả: hàng rào làm giảm 63% sức mạnh của sóng vỗ bờ, bồi đắp thêm 20cm bùn mỗi năm (chừng 700 tấn/ha), bảo vệ dải rừng ngập mặn phía trong ngay cả ở những nơi xói lở nghiêm trọng. Hàng ngàn cây tràm cừ người dân trồng trở nên có giá. Người dân tham gia xây dựng nên có thu nhập, còn con đê biển phía trong trở thành lộ (đường) có thể đi xe máy.
Tuy nhiên, vẫn chưa thể kết luận liệu cây tràm làm kè biển có bền như khi chúng được đóng cọc làm móng nhà hay không vì chúng vốn là loài cây quen chịu nước ngọt nhiễm phèn chứ không phải nước mặn. Lại còn mối nguy là con hà phát triển sẽ tàn phá đám rừng ngập mặn mới được trồng. Nếu phun hóa chất bảo vệ cây ngập mặn thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề về chi phí và ô nhiễm biển chưa tính hết được. Theo tính toán thì cứ 1 km hàng rào cây tràm chắn sóng hết gần 439 triệu đồng, 1 km hàng rào bẫy bùn tùy loại hết từ 215 triệu đến 348 triệu đồng, chưa kể chi phí xây dựng đê biển phía trong. Đây mới là mô hình trình diễn
Thay vì ứng phó thụ động với xói lở biển, Thành phố Rạch Giá ra đòn trước: “Tiến ra biển”. Lấn biển mở rộng đô thị là hướng đi thành công của thành phố trẻ miền Tây này.
Khu lấn biển Rạch Giá 1 đã cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng, có tổng diện tích 420ha, có khả năng bố trí nơi ở cho 60.000 cư dân. đến cuối tháng 3/2004, đã có 4.200/10.157 lô đất được bán trong khu lấn biển. Nhiều khu phố mới đã mọc lên. Đây là dự án lấn biển lớn nhất Việt Nam.
Dự án lấn biển Rạch Giá thứ 2 mới khởi động có tổng diện tích khoảng 150ha đất đô thị, 35ha đất dành cho công nghiệp dịch vụ nghề cá, phần còn lại là đất du lịch, dịch vụ và cây xanh.. Sau khi hoàn tất xây dựng sẽ bố trí chỗ ở cho khoảng 16.000 người tại các căn nhà biệt thự hướng ra biển và nhà phố thấp tầng. Đồng thời sẽ dành khoảng 30% diện tích để đầu tư xây dựng khu neo đậu tàu thuyền trú bão và dịch vụ hậu cần nghề cá.
Áp lực dân số lên đất đai ở thành phố xinh đẹp này không còn là vấn đề ám ảnh như ở các khu đô thị ven biển khác quanh năm lo lắng vì ngập úng và xói lở bờ sông bờ biển. Trong các câu chuyện hàng ngày có lẽ BĐKH là vấn đề ít được nhắc đến nhất ở Rạch Giá, bởi lẽ thành phố này có chiến lược ứng phó hiệu quả riêng của mình mà ít trông chờ vào tài trợ của Chính phủ hay nước ngoài.
Cần Thơ có mô hình cộng đồng tự quai và tu bổ đê bao chống lũ lụt ở một vài cù lao trên sông Hậu trong đó điển hình nhất là Cồn Sơn.. Cồn Sơn nằm giữa sông Hậu (khu vực 1, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ) được chọn làm nơi tham quan của Đoàn Giám sát. Mặt ruộng trong đê thấp hơn mặt đê 2-3m và thấp hơn mặt nước sông Hậu trên 1m vào thời điểm quan sát (đang là mùa khô). Con đê này bao quanh hết chu vi cồn, dài hơn 6 cây số, được người dân khởi đắp từ trước năm 1970, sau đó nước dâng đến đâu thì dân tự đắp lên đến đó. Đoạn đê trước nhà ai nhà đó tự tu bổ. Đoạn đê trước nhà máy xay xát do nhà máy lo. Mùa lũ nước ngập nhà nào thì nhà đó tự bơm nước ra sông. Con đê bao được dùng luôn làm hương lộ. Đây có lẽ là mô hình điển hình của việc cộng đồng tham gia ứng phó BĐKH ở Cần Thơ bằng nguồn kinh phí xã hội hóa. Có người còn nói đùa Cồn Sơn là Tiểu Hà Lan. Nhưng có lẽ tương lai thì cả thành phố Cần Thơ cũng sẽ là Tiểu Hà Lan.
Tuy nhiên, các cồn bãi ven sông là các cấu trúc chưa hoàn thiện, chũng biến động hàng năm và cần được liên tục bồi đắp do phù sa. Việc kè cứng các cồn khiến cho bề mặt các cồn bãi ngày càng thấp hơn mực nước sông, đồng thời làm hẹp dòng chảy mùa lũ tạo điều kiện gia tăng xói lở các dải bờ không có kè. Mô hình kè bờ sông do đó, là những mô hình có giá trị cục bộ. Cần có đánh giá trong phạm vi lớn hơn.
IV. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA CỘNG ĐỒNG
Theo một Sáng kiến của cộng đồng đang được thử nghiệm rộng rãi trên thế giới mà nước ta được chọn là một điển hình, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam những năm gần đây đã sử dụng khá nhuần nhuyễn công cụ TAI , viết tắt của cụm từ tiềng Anh và được dịch cho dễ hiểu là Sáng kiến tiếp cận quyền môi trường. Theo đó, để cộng đồng có thể phát huy năng lực của mình trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường và BDKH, cần thiết phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ 4 lĩnh vực sau:
– Bảo đảm thông tin: cộng đồng cần được cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến tài nguyên và môi trường của cả nước, của các ngành, các địa phương, của các quy hoạch, kế hoạch, các dự án,…
– Bảo đảm sự tham gia: người dân được tham gia trên thực tế và bằng các hình thức thích hợp vào mọi hoạt động liên quan đến hoạch định chính sách, ban hành pháp luật, xây dựng quy hoạch, dự án,…liên quan đến tài nguyên và môi trường.
– Bình đẳng luật pháp:trước pháp luật về tài nguyên và môi trường, mọi công dân đều bình đẳng. Đây là điều khó nhất trong tổ chức thực hiện trên thực tế ở tất cả các nước, nhưng lại đang là vấn đề mấu chốt để có thể quản lý tốt tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với BDKH dựa vào cộng đồng.
– Tăng cường năng lực: cộng đồng phải thật sự được tăng cường năng lực để đảm đương trọng trách. Có tiềm năng, có số đông, nhưng năng lực kém, tổ chức tồi thì khó có thể có được sức mạnh cần thiết.
Ảnh 3: Hội thảo Quyền tiếp cận Môi trường TAI
Vì sự quan trọng của nội việc cường năng lực cho cộng đồng, dưới đây đề cập cụ thể các nội dung liên quan đến ANKH.
Một là, trong chính sách cũng như điều hành trên thực tế, cộng đồng phải là một bộ phận không thể thiếu trong BVMT, quản lý tài nguyên và ứng phó BĐKH. Có câu “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Nếu coi (một cách đúng đắn) rằng BĐKH là một loại “giặc trời” thì không thể coi ứng phó với loại giặc này chỉ là nhiệm vụ của chính quyền các cấp, chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước và chỉ bằng các giải pháp công trình chi phí lớn.. Những công việc chính quyên không làm (để tập trung vào các nhiệm vụ trọng đại hơn) hoặc không làm được, thì cộng đồng và đại diện là các tổ chức xã hội có thể làm tốt. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” là phản ảnh đúng với tinh thần đó.
Hai là, trong Nghị quyết 24 của Trung ương cũng như trong Chiến lược Quốc gia Ứng phó BĐKH và các văn bản liên quan khác cũng đã có những điều khoản khẳng định một cách đầy đủ – rõ ràng – mạch lạc vai trò của các “Đoàn thể Chính trị – Xã hội – Nghề nghiệp và cộng đồng dân cư”. Nhưng các quy định này xuống đến địa phương (thể hiện trong Kế hoạch hành động của nhiều tỉnh) thường được thể hiện nhẹ nhàng đi nhiều và thậm chí đến các công đoạn thực hiện thì hầu như không thấy các tổ chức xã hội và cộng đồng có vai trò gì đáng kể.
Ba là, ba lĩnh vực thể hiện rõ nét vai trò của cộng đồng trong BVMT là: (a) Nâng cao nhận thức cho cộng đồng, (b) Tập hợp người dân chủ động sáng tạo các mô hình cộng đồng, (c) Phát huy các nguồn lực “xã hội hóa”, (d) Tham gia Giám sát xã hội các dự án liên quan.
Bốn là, để thực hiện tốt vai trò này, cộng đồng cần có tổ chức chặt chẽ, tích cực và chủ động tăng cường năng lực để có thể thực hiện 3 lĩnh vực nêu trên. Có 4 mảng Năng lực bao gồm: (a) Năng lực hiểu biết – Trí lực (về tác động của BĐKH và các văn bản pháp lý của Trung ương và địa phương về ứng phó BĐKH ), (b) Năng lực tổ chức cho thành viên tham gia một cách chủ động vào các chương trình mục tiêu của Trung ương và địa phương; (c) Năng lực sáng tạo các mô hình cộng đồng; (d) Năng lực Giám sát xã hội các chương trình, đề án liên quan của Trung ương và địa phương.
Năm là, cần thiết ủng hộ các sáng kiến của cộng đồng hướng tới việc chủ động BVMT, quản lý tài nguyên và ứng phó với BĐKH. Trên thực tế các sáng kiến này xuất hiện ngày càng nhiều.
Những nỗ lực của cộng đồng trên cả nước nói chung và của đồng bào miền miền Tây sông Hậu nói riêng đã đem lại những kết quả nhất định trong ứng phó biến đổi khí hậu. Nhiều mô hình sáng tạo không chỉ được xây dựng từ ý tưởng của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia môi trường mà còn được phát huy từ kinh nghiệm thực tiễn, sáng tạo cùa những anh “hai lúa”, những người nông dân miền sông nước. Tuy nhiên, Các mô hình ấy vẫn còn ít ỏi và mang tính giá trị cục bộ cả về không gian, thời gian và nhất là tính thích ứng lâu dài với BĐKH vẫn đang tiếp tục biến đổi khó lường, cần có những đánh giá trong phạm vi lớn hơn. Nhận thức đầy đủ về BĐKH và có hành động thiết thực của cộng đồng là yêu cầu lớn trong phát triển bền vững đất nước hiện nay.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- An ninh môi trường nói chung, An ninh khí hậu nói riêng là vấn đề mới, phức tạp, nhưng hết sức quan trọng, cần được sớm nghiên cứu, bổ sung vào văn bản các loại, làm cơ sở để cộng đồng và toàn xã hội thực hiện việc tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
- Huy động sức mạnh cộng đồng trong lĩnh vực Bảo vệ Thiên nhiên và môi trường mà đặc biệt là An ninh Khí hậu là hết sức cần thiết, cần khẩn trương hơn nữa trong việc thể chế hóa, luật hóa và nhất là tổ chức thực hiện các quan điểm, chủ trương và các quy định đã ban hành trên cơ sở rút kinh nghiệm thực tế của ta vừa qua và tham khảo kinh nghiệm quốc tế.
- Trước mắt, đề nghị các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, các tổ chức quốc tế và khu vực tăng cường hỗ trợ các hội xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ tiến hành các hoạt động nhằm cùng với cộng đồng bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh khí hậu, phục vụ sự nghiệp phát triển bèn vững của đất nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
- Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh (2009, tái bản 2012). An ninh môi trường. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội
- Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh (2015). Vai trò cộng đồng trong ứng phó biến đổi khí hậu – nghiên cứu trường hợp khu miền Tây sông Hậu. Tạp chí Tuyên Giáo, Ban Tuyên Giáo Trung ương, số 8/2015.
- Hội BVTN&MT VN (2004) Việt Nam – Môi trường và Cuộc sống. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
- Hội BVTN&MT VN (2006). Nghiên cứu tổng kết một số mô hình phát triển bền vững ở Việt Nam. Dự án Agenda 21 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản.
- Hội BVTN&MT VN (2007). Cộng đồng với môi trường – Kết quả thử nghiệm phương pháp tiếp cận môi trường của cộng đồng tại Việt Nam.
- Hội BVTN&MT VN (2009) Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội
- Hội BVTN&MT VN (2012). Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn. NXB Tài nguyên, Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội
- Hội BVTN&MT VN và Cục Bảo tồn Đa dạng sinh học (2014). Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn ĐDSH dãy Trường Sơn lần thứ 6. Chuyên đề Tri thức bản địa và sinh kế cộng đồng. Đà Nẵng.
- Nguyễn Ngọc Sinh (2015). Thay đổi cung cách ứng xử với thiên nhiên, xây dựng văn hóa môi trường tiên tiến hướng tới phát triển bền vững đất nước. Tạp chí Môi trường, số 2 /2015
- America`s Climate Security Act of 2007.
- Ohta,H ( 2008 ). Climate Security and Human Security: The Convergence on Policy Requirements.
- Thailand Environment Institute ( 2013).Environmental Governance in Asia: Independent Assessments of National Implementation of Rio Declaration’s Principle 10: Bangladesh, India, Indonesia, Nepal, Philippin, Sri Lanka, Thailand, Vietnam,Yunnan province of China.
- Trombetta, M.J.,(2008) The meaning and function of climate security. Delft University of Technology, Lujbljana
………………………………………………………………………………….
Nguồn: Trích dẫn từ kỷ yếu Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, Bộ tài nguyên và Môi trường, Hà Nội, 29/09/2015
…………………………………………………………………………………..
Leave a Reply